Chaparral cao trung bình có thể lên đến 3 m. Nó có nguồn gốc tại các vùng đất khô cằn của Nam Mỹ (nơi nó được gọi là jarilla hoặc jarillo). Chaparral được tìm thấy lần đầu vào năm 1800 bởi nhà thực vật học người Tây Ban Nha Antonio José Cavanilles.
Chaparral đang mùa nở hoa
(Source:https://en.wikipedia.org/wiki/Larrea_divaricata)
Tên gọi “chaparral” được hiểu là nơi mà các cây mọc vùng đất đó thích ứng với thời tiết khắc nghiệt như hạn hán và sức nóng thiêu đốt của sa mạc. Tuy vậy, các cây Larrea divaricate không phải luôn luôn trồng trong vùng chaparral. Những vùng này bao gồm các loại cây hoang dã thuộc các khu vực sa mạc của Tây nam nước Mỹ, phía bắc Mexico, cũng như các khu vực khô hạn ở Nam Mỹ như Argentina và Bolivia.
Thân cây Chaparral có hình trụ với cành và lá có màu xanh đậm (vào mùa khô hạn lá có màu tái nhạt hay màu vàng xanh), lá nhỏ hình oval gồm từng cặp đối diện. Chúng có những cánh hoa màu vàng có năm cánh thường trổ vào tháng mười và tháng mười một. Ngoài hoa, còn có các trái khô bao bọc bằng những sợi lông xám cùng năm hạt giống. Cây được nhân giống khi từng đàn dê ăn lá, và hột vào mùa khô khi cỏ khan hiếm.
Các nhựa dính tìm thấy trên lá của cây cho chaparral mùi khác biệt và hăng hăng đặc trưng của nó (nhất là sau một trận mưa), vì thế thu hoạch chaparral rất khó khăn do độ dính của lá, nhất là sau khi chúng khô.
Rễ chúng tiết ra một chất mà không một cây nào có thể mọc được gần, giúp chaparral phát triển mạnh mẽ. Các lớp nhựa bao bọc bên ngoài lá giữ cho chúng đầy đủ độ ẩm cùng bảo vệ khỏi nhiệt độ và tia cực tím khắc nghiệt của sa mạc. Cùng với bộ rễ lớn, chaparral có thể hấp thụ đủ nước để tồn tại ngay cả trong thời kỳ hạn hán.
Trái của cây Chaparral
(Source: https://en.wikipedia.org/wiki/Larrea_tridentata)
Theo y học truyền thống của người thổ dân châu Mỹ và Mexico dùng lá và thân chaparral phơi khô dùng làm trà, chế biến thành viên hay ngâm rượu dùng để uống hay xoa ngoài da, nó có thể dùng chữa các bệnh như thấp khớp, viêm khớp, đau dạ dày, ung thư, bệnh lao, co thắt ruột, cảm lạnh và viêm phế quản.
Chaparral được cho rằng có thể giúp giảm đau, giảm viêm, lợi tiểu, và làm chậm quá trình lão hóa. Nó từng được đề cao như một thảo dược chống ung thư và chống oxy hóa (một hợp chất ngăn chặn hoạt động của các gốc tự do, các phân tử oxy hoạt tính, có thể gây tổn hại tế bào). Một số người gọi nó là một "chất thanh lọc cơ thể" hoặc giải độc. Chaparral cũng đôi khi được sử dụng với các loại thảo dược khác như là trà chống ung thư.
Trà Chaparral đã được sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ từ cuối những năm 1950 đến những năm 1970 như một phương thuốc dùng chống ung thư. Nghiên cứu thực nghiệm trong những năm 1960 cho thấy, Chaparral có thể gây ra vấn đề với thận và chức năng gan.
Năm 1968, FDA (Food and Drug Administration) của Mỹ đã khuyến cáo không được dùng Chaparral vì nó có độc tính cao, và đã được báo cáo gây bệnh gan nghiêm trọng và dùng lâu dài có thể gây tử vong.
Với việc tìm nguồn trị liệu thay thế y học tây phương dẫn đến sự gia tăng sử dụng Chaparral trong những năm 1980. Đầu những năm 1990, FDA đã ban hành một cảnh báo về việc dùng Chaparral để trị bệnh.
Trong năm 1992, FDA lần nữa đã gửi một cảnh báo, và khuyến khích loại bỏ tất cả các sản phẩm chaparral từ thị trường. Tháng 2 năm 2006 - Bộ Y tế Canada đã cảnh cáo người tiêu dùng không dùng Chaparral dưới dạng lá, các loại trà, viên với số lượng nhiều vì các nguy cơ của chaparral.. Mặc dù vậy, chaparral vẫn còn dễ dàng mua tại các cửa hàng, và qua internet.
Thành phần chính trong Chaparral là axit Nordihydroguaiaretic (NDGA) một chất chống oxy hóa mạnh (cùng sở hữu độc tính đáng kể) được cho là có khả năng hữu ích trong việc điều trị ung thư. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã được thực hiện trên chuột, không phải con người.
Hầu hết các nghiên cứu cho thấy rằng chaparral không an toàn khi sử dụng để điều trị hoặc ngăn ngừa ung thư. Và cũng không khuyến khích sử dụng nó để uống hay bôi ngoài da dùng trị bất kỳ chứng bệnh nào.
Thử nghiệm chaparral cho người bị ung thư
Một nghiên cứu của Mỹ trong năm 1970 đã thử nghiệm trà chaparral, và thuốc viên làm từ thành phần chính của nó (gọi là axit nordihydroguaiaretic hoặc NDGA). Nghiên cứu xem xét 45 người bị ung thư. Viện Ung thư Quốc gia Mỹ (National Cancer Institute) công bố kết quả:
Trong số 45 người tham gia, 4 người cho thấy ung thư của họ đã nhỏ hơn. Hiệu quả kéo dài từ 10 ngày đến 20 tháng. Nhưng còn 41 người khác, các khối u đã lớn hơn. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu tìm thấy chaparral không an toàn và không có hiệu quả trong điều trị ung thư.
Một số nghiên cứu trong phòng thí nghiệm dường như cho thấy rằng các hóa chất chính trong chaparral - NDGA - có thể có đặc tính chống ung thư. Nhưng đã có không có thử nghiệm lâm sàng ở người để chứng minh điều này.
Trong một vài nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, có vẻ như NDGA có thể giúp các loại thuốc trị ung thư khác làm việc tốt hơn. Các nhà nghiên cứu đang xem xét liệu một dạng tinh khiết của NDGA có thể có ích trong điều trị ung thư. Nhưng đó chỉ là nghiên cứu đầu tiên. Một chất có thể hứa hẹn trong phòng thí nghiệm, nhưng có thể không điều trị thành công cho bệnh ung thư ở người.
Một đánh giá của 18 trường hợp những người uống chaparral cho thấy nó có thể gây ra tổn thương gan không khả năng hồi phục, và cũng có thể gây tổn thương thận ở một số người.
Nhiều trang web quảng cáo chaparral như một loại thảo dược để giúp ngăn ngừa hoặc điều trị bệnh ung thư. Nhưng không có một bằng chứng hoặc các cơ sở y học uy tín nào hỗ trợ cho những công bố này. Xin hảy rất thận trọng với các thông tin không xác thực trên các trang web này. Và suy nghĩ cẩn thận trước khi trả tiền cho bất kỳ phương cách điều trị ung thư khác qua internet (theo Cancer Research UK) .
Qua các cuộc thử nghiệm Chaparral không đủ bằng chứng trị được các bệnh sau:
Viêm khớp.
Ung thư.
Bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Lao.
Cảm lạnh.
Bệnh về da
Các vấn đề dạ dày (chuột rút, khí).
Giảm cân.
Đường tiểu, và nhiễm trùng đường hô hấp.
Bệnh trái rạ (Chickenpox).
Tác dụng phụ:
Có một số báo cáo về ngộ độc nghiêm trọng, viêm gan, thận cấp tính, và tổn thương gan, gồm cả suy gan. Ngoài ra, Chaparral có thể làm cho người đã từng mắc bệnh gan, thận trở nặng hơn. Tuyệt đối không sử dụng nó.
Chaparral có thể gây ra tác dụng phụ bao gồm đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, sụt cân, sốt, gan và tổn thương thận. Bôi chất chiết xuất chaparral vào da có thể gây ra các phản ứng da bao gồm phát ban và ngứa.
Chaparral không an toàn với phụ nữ mang thai và cho con bú. Không sử dụng các sản phẩm có chứa chaparral.
Các loại thuốc tây y có thể gây hại cho gan (Hepatotoxic drugs) tương tác với Chaparral.
Chaparral có thể gây tổn hại cho gan. Uống chaparral cùng với loại thuốc hepatotoxic có thể làm tăng nguy cơ tổn thương gan trầm trọng thêm. Đừng dùng chaparral nếu bạn đang dùng một trong các thứ thuốc trên. Hepatotoxic là loại thuốc có thể gây hư hại tới gan. Một vài thứ thuốc Hepatotoxic gồm acetaminophen (Tylenol and others), amiodarone (Cordarone), carbamazepine (Tegretol), isoniazid (INH), methotrexate (Rheumatrex), methyldopa (Aldomet), fluconazole (Diflucan), itraconazole (Sporanox), erythromycin (Erythrocin, Ilosone, others), phenytoin (Dilantin), lovastatin (Mevacor), pravastatin (Pravachol), simvastatin (Zocor)…
Hỏi ý kiến bác sĩ gia đình trước khi dùng bất kỳ thảo dược nào nếu bạn đang có một chứng bệnh nghiêm trọng, nhất là các bệnh về gan thận.
Sources:
http://www.cancerresearchuk.org/about-cancer/cancers-in-general/treatment/complementary-alternative/therapies/chaparral
https://www.drugs.com/npc/chaparral.html
http://www.webmd.com/vitamins-supplements/ingredientmono-791-chaparral.aspx?activeingredientid=791&activeingredientname=chaparral
https://en.wikipedia.org/wiki/Larrea_divaricata
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét